Ngày đăng: 27/07/2014, 18:20. XUẤT HUYẾT NÃO – MÀNG NÃO TRẺ SƠ SINH Mục tiêu 1. Nêu được giải phẫu bệnh, nguyên nhân, lâm sàng, dịch tễ học, tiến triển của bệnh xuất huyết trong não thất ở trẻ sơ sinh đẻ non 2. Trình bày được bệnh sinh, nguyên nhân, lâm sàng của bệnh Xuất huyết não màng não do thiếu vitamin K ở trẻ nhỏ thường phát bệnh sớm, có hơn 90% bệnh khởi phát khi bé được 30 – 90 ngày tuổi, thậm chí một số bé có nguy cơ bị bệnh ngay khi vừa cất tiếng khóc chào đời cho đến 3 tháng tuổi; có rất ít trường hợp bé mắc bệnh Ở người lớn, xuất huyết dạ dày thường là do quá trình ăn uống, sinh hoạt không hợp lý. Trẻ sơ sinh dễ mắc xuất huyết dạ dày do sức đề kháng chưa cao, chế độ chăm sóc, ăn uống không hợp lý. Đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, do sức đề kháng chưa cao nên dễ bị Xuất huyết não - màng não ở trẻ là một bệnh rất nguy hiểm tuy nhiên có thể dự phòng, hạn chế di chứng và điều trị khỏi nếu như phát hiện bệnh sớm. Việc điều trị xuất huyết màng não ở trẻ chủ yếu là điều trị triệu chứng, nguyên nhân và điều trị hỗ trợ. Trình bày cách chẩn đoán bệnh xuất huyết não màng não muộn ở trẻ sơ sinh 58 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 454 | Lượt tải: 0 Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Xuất huyết não màng não muộn ở trẻ sơ sinh , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút Nguyên nhân xuất huyết ở trẻ sơ sinh. Xuất huyết ở trẻ sơ sinh thường do nguyên nhân thiếu hụt vitamin K. Thiếu vitamin K làm giảm khả năng đông máu. Trong khi đó, trẻ sơ sinh chưa có khả năng tổng hợp, lưu trữ vitamin K trong cơ thể. Sữa mẹ cũng không cung cấp đầy đủ 3. Giai đoạn khởi phát muộn. Xuất huyết ở trẻ sơ sinh xảy ra ở trẻ từ 2 tuần đến 6 tháng tuổi được gọi là xuất huyết ở giai đoạn khởi phát muộn. Bệnh này thường xảy ra ở những trẻ không được tiêm vitamin K. Các yếu tố nguy cơ bao gồm: Hàm lượng vitamin K trong wUmW. Nhiễm khuẩn sơ sinh là tình trạng bị các tác nhân vi sinh vật xâm lần, thường là do vi khuẩn xảy ra trong giai đoạn sơ sinh. Dấu hiệu nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh rất đa dạng và không đặc hiệu bao gồm giảm vận động, ăn bú kém, ngừng thở, tim chậm, thay đổi thân nhiệt, suy hô hấp, nôn, tiêu chảy, bụng chướng, rung cơ, co giật và vàng da. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và kết quả nuôi cấy. Việc điều trị ban đầu với ampicillin kết hợp với gentamicin hoặc cefotaxime, thu hẹp phổ kháng sinh ngay khi có kết quả vi khuẩn sơ sinh xảy ra trong khoảng từ 0,5 đến 8,0/1000 ca sinh. Tỷ lệ cao nhất xảy ra trong Trẻ sinh nhẹ cân LBWThiểu sốNam giới Khởi phát nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh có thể Sớm ≤ 3 ngày sau sinhMuộn sau 3 ngày Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm thường do hậu quả nhiễm trùng từ trong tử cung. Hầu hết trẻ sơ sinh có các triệu chứng trong vòng 6 giờ sau sinh. Các trường hợp khác có xu hướng do trực khuẩn đường ruột gram âm gây ra ví dụ, các chủng Klebsiella Nhiễm trùng do Klebsiella, Enterobacter, và Serratia Vi khuẩn gram âm Klebsiella, Enterobacter và Serratia có liên quan mật thiết với hệ vi khuẩn đường ruột bình thường mà hiếm khi gây bệnh ở những người bình thường. Chẩn... đọc thêm và một số sinh vật gram dương Listeria monocytogenes Listeriosis Listeriosis là bệnh nhiễm trùng máu, viêm màng não, viêm não, viêm da, hội chứng tuyến mắt, nhiễm trùng tử cung và trẻ sơ sinh, hoặc hiếm khi gây viêm nội tâm mạc do loài Listeria. Các... đọc thêm , enterococci Nhiễm cầu khuẩn đường ruột Cầu khuẩn đường ruột là vi khuẩn gram dương, kị khí tuỳ tiện. Enterococcus faecalis và E. faecium gây ra một loạt các bệnh nhiễm trùng, bao gồm viêm nội tâm mạc, viêm đường tiết... đọc thêm [ví dụ, Enterococcus faecalis, E. faecium], liên cầu khuẩn nhóm D Nhiễm liên cầu Liên cầu là các vi khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc. Các triệu chứng... đọc thêm [ví dụ, Streptococcus bovis], liên cầu tan huyết alpha Nhiễm liên cầu Liên cầu là các vi khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc. Các triệu chứng... đọc thêm và tụ cầu Nhiễm trùng tụ cầu tụ cầu khuẩn là các vi khuẩn Gram dương, hiếu khí. Staphylococcus aureus là tác nhân gây bệnh nhiều nhất; nó thường gây ra nhiễm trùng da và đôi khi viêm phổi, viêm nội tâm mạc, và viêm... đọc thêm . Ngoài ra, S. pneumoniae Nhiễm Phế Cầu Khuẩn Streptococcus pneumoniae phế cầu là vi khuẩn gram dương, tan máu alpha, hiếu khí, xếp đôi. Ở Mỹ, nhiễm trùng phế cầu là nguyên nhân chính gây viêm tai giữa, viêm phổi, nhiễm trùng huyết... đọc thêm , H. influenzae nhóm b Nhiễm khuẩn Haemophilus Loài vi khuẩn gram âm Haemophilus gây nhiều nhiễm trùng nhẹ và nghiêm trọng, bao gồm vãng khuẩn huyết, viêm màng não, viêm phổi, viêm xoang, viêm tai giữa, viêm tế bào và viêm thanh quản... đọc thêm , và, ít phổ biến hơn, Neisseria meningitidis Bệnh Meningococcal Meningococci Neisseria meningitidis là những song cầu khuẩn gram âm gây viêm màng não mủ và nhiễm trùng huyết. Các triệu chứng, thường là nặng, bao gồm đau đầu, buồn nôn, nôn, sợ ánh... đọc thêm gần như không gặp. Bệnh lậu không triệu chứng đôi khi xảy ra trong thai kỳ, do đó N. gonorrhoeae Bệnh lậu Bệnh lậu do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây ra. Nó thường nhiễm vào biểu mô của niệu đạo, cổ tử cung, trực tràng, hầu họng, hoặc kết mạc, gây kích ứng hoặc đau và xuất huyết rải rác... đọc thêm có thể hiếm khi là một mầm bệnh. Mặc dù xét nghiệm sàng lọc và dự phòng kháng sinh trong đẻ đối với nhóm liên cầu nhóm B đã làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm trùng sớm do GBS, tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm trùng muộn do GBS vẫn không thay đổi, điều này phù hợp với giả thuyết nhiễm khuẩn sơ sinh muộn thường do môi trường. Một số bệnh nhiễm trùng do virus ví dụ, herpes simplex lan tỏa Nhiễm Herpes Simplex HSV ở trẻ sơ sinh Nhiễm virus herpes simplex sơ sinh thường lây truyền trong cuộc đẻ. Dấu hiệu điển hình với tổn thương mụn phỏng vỡ mủ có thể khu trú hoặc tan tỏa các cơ quan. Chẩn đoán dựa vào nuôi cấy vi rút... đọc thêm , enterovirus Tổng quan về nhiễm Enterovirus Nhóm Enterovirus, cùng với nhóm rhinovirus xem Cảm lạnh thông thường và parechovirus ở người, là một chi của picornavirus pico, hoặc vi rút RNA nhỏ. Tất cả các enterovirus đều có... đọc thêm , adenovirus Nhiễm adenovirus Nhiễm một trong số nhiều loại adenovirus có thể không có triệu chứng hoặc gây ra các hội chứng cụ thể, bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp nhẹ, viêm kết giác mạc, viêm dạ dày và ruột, viêm bàng... đọc thêm , vi rút hợp bào hô hấp Virus hợp bào hô hấp RSV và nhiễm Human Metapneumovirus Virus hợp bào hô hấp và nhiễm human metapneumovirus gây nhiễm trùng đường hô hấp dưới theo mùa, đặc biệt ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. Bệnh có thể không có triệu chứng, nhẹ hoặc nặng, bao gồm viêm... đọc thêm có thể biểu hiện như nhiễm trùng huyết khởi phát sớm hoặc khởi phát muộn. Một số yếu tố chu sinh và sinh sản của bà mẹ làm tăng nguy cơ, đặc biệt là nhiễm trùng sơ sinh sớm, như sau Mang GBS Liên cầu nhóm B Lây lan qua đường máu và qua nhau thai xảy ra khi lây truyền một số tác nhân gây bệnh do vi rút ví dụ rubella Bệnh Rubella bẩm sinh Bệnh Rubella bẩm sinh là một bệnh nhiễm virut từ người mẹ trong thời kỳ mang thai. Dấu hiệu bao gồm các dị tật bẩm sinh, có thể gây tử vong cho thai. Chẩn đoán là do huyết thanh học và cấy virus... đọc thêm , cytomegalovirus Nhiễm Cytomegalovirus CMV Bẩm sinh và Chu sinh Nhiễm Cytomegalovirus có thể xảy ra trước khi sinh hoặc chu sinh. Đây là một trong những bệnh nhiễm virus bẩm sinh thường gặp nhất. Các dấu hiệu khi sinh, nếu có, là chậm tăng trưởng trong tử... đọc thêm , động vật nguyên sinh ví dụ, Toxoplasma gondii Toxoplasmosis Bệnh Toxoplasma do nhiễm ký sinh trùng Toxoplasma gondii. Triệu chứng từ không biểu hiện đến hạch to lành tính bệnh giả tăng bạch cầu đơn nhân tới đe dọa đến mạng sống bệnh lý thần... đọc thêm và treponemal ví dụ Treponema pallidum Bệnh giang mai bẩm sinh Bệnh giang mai bẩm sinh là một nhiễm trùng đa cơ quan gây ra bởi Treponema pallidum và truyền cho thai qua nhau thai. Dấu hiệu sớm là các tổn thương da điển hình, hạch to, gan lách to... đọc thêm Một số vi khuẩn gây bệnh ví dụ, L. monocytogenes Listeriosis Listeriosis là bệnh nhiễm trùng máu, viêm màng não, viêm não, viêm da, hội chứng tuyến mắt, nhiễm trùng tử cung và trẻ sơ sinh, hoặc hiếm khi gây viêm nội tâm mạc do loài Listeria. Các... đọc thêm , Mycobacterium tuberculosis Bệnh lao TB Bệnh lao TB là bệnh nhiễm trùng do mycobacterial tiến triển mạn tính, thường có thời gian tiềm tàng sau khi có nhiễm bệnh ban đầu. Lao thường ảnh hưởng nhiều nhất đến phổi. Triệu chứng bao... đọc thêm một số trường hợp có thể lây nhiễm qua bánh rau, nhưng phần lớn là do nhiễm trùng ngược dòng từ cổ tử cung lên và do khi trẻ đi qua đường sinh dục có mang vi khuẩn của mẹ trong cuộc dù mật độ vi khuẩn mang ở bà mẹ có liên quan trực tiếp đến nguy cơ bệnh xâm lấn ở trẻ sơ sinh, nhưng nhiều bà mẹ có mật độ mang vi khuẩn thấp lại sinh ra trẻ sơ sinh có mật độ mang vi khuẩ cao, vì vậy chúng có nguy cơ cao nhiễm bệnh. Nước ối có phân su hoặc nhiều chất gây có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Streptococcus nhóm B và E. coli. Hơn nữa, một vài sinh vật trong khoang âm đạo của mẹ có thể tăng nhanh sau vỡ ỗi sớm PROM, có thể góp phần lây truyền ngược dòng. Các sinh vật nhiễm vào máu thông qua thai nhi hít hoặc nuốt nước ối bị ô nhiễm, dẫn đến nhiễm khuẩn trùng ngược dòng thể giúp giải thích nhiễm trùng cao ở trẻ sơ sinh có vỡ ối sớm, viêm phần phụ viêm ối có liên quan đến nhiễm trùng huyết sơ sinh hơn là viêm ở trung tâm bánh rau, trẻ sinh đôi nằm gần đường sinh dục của mẹ ở có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn, nhiễm vi khuẩn của nhiễm trùng sơ sinh sớm và phản ánh hệvi khuẩn của khoang âm đạo của người mẹ. Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất trong nhiễm trùng huyết sơ sinh khởi phát muộn làCác yếu tố nguy cơ khác bao gồm Sử dụng catheter nội mạch kéo dàiBệnh liên quan có thể,chỉ là một dấu hiệu cho việc sử dụng thủ tục xâm lấnSử dụng kháng sinh không phù hợp tăng vi khuẩn kháng thuốcNằm viện kéo dàiThiết bị bị ô nhiễm hoặc dung dịch tiêm truyền hoặc cho vi khuẩn Gram dương ví dụ, coagulase-negative staphylococci và Staphylococcus aureus có thể từ môi trường hoặc da của bệnh nhân. Các vi khuẩn Gram âm thường xuất phát từ hệ vi khuẩn nội sinh của bệnh nhân, có thể đã bị thay đổi do sử dụng kháng sinh trước đó hoặc do các vi khuẩn kháng thuốc chuyển từ bàn tay của nhân viên chăm sóc phương tiện lây lan chính hoặc thiết bị bị ô nhiễm. Do đó, các nguy cơ làm tăng khả năng nhiễm với các vi khuẩn này ví dụ, đông người, nhân viên y tá không đầy đủ, không rửa tay, rửa tay không đúng dẫn đến tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện cao hơn. Các yếu tố nguy cơ nhiễm chủng Candida bao gồm sử dụng catheter đường tĩnh mạch trung tâm kéo dài > 10 ngày, dung dịch dưỡng tĩnh mạch, sử dụng kháng sinh phổ rộng đặc biệt là cephalosporin thế hệ thứ 3 và bệnh lý đường trùng ban đầu có thể xảy ra ở đường tiểu, viêm xoang, tai giữa, viêm phổi hoặc đường tiêu hoá, và sau đó có thể lan truyền màng não, thận, xương, khớp, phúc mạc và da. Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh Dấu hiệu ban đầu của nhiễm khuẩn huyết sơ sinh thường không đặc hiệu, kín đáo và không phân biệt giữa các tác nhân kể cả virut. Những dấu hiệu sớm phổ biến nhất bao gồm Giảm hoạt động tự phát Bú ít Chán ănNgưng thở Nhịp tim chậmSự mất ổn định nhiệt độ hạ thân nhiệt hoặc tăng thân nhiệtSốt xuất hiện chỉ trong 10% đến 15% số trẻ sinh nhưng, khi duy trì ví dụ > 1 giờ, thường là dấu hiệu chỉ điểm nhiễm trùng. Các triệu chứng và dấu hiệu khác bao gồm suy hô hấp, các triệu chứng thần kinh ví dụ, cơn co giật, rung giật, vàng da đặc biệt xuất hiện trong vòng 24 giờ đầu đời mà không có bất đồng Rh hoặc ABO với tăng nồng độ bilirubin trực tiếp, nôn, tiêu chảy, và chướng bụng. Dấu hiệu cụ thể của cơ quan bị bệnh có thể xác định vị trí ban đầu hoặc ổ di bệnh. Hầu hết trẻ sơ sinh nhiễm trùng sớm do Streptococcus nhóm B hoặc L. monocytogenes có tình trạng hô hấp đôi khi khó phân biệt được với hội chứng suy hô hấp cấp RDS.Viêm tấy đỏ, chảy dịch, chảy máu quanh rốn mà không có các bệnh lý liên quan chảy máu khác có thể là dấu hiệu gợi ý nhiễm trùng rốn nhiễm trùng gây hủy hoại của mạch rốn.Hôn mê, co giật, uốn ván, hoặc thóp phồng lên gợi ý viêm màng não, viêm não, hoặc áp xe vận động tự phát của một chi cùng với sưng, nóng, đỏ, hoặc đau trên khớp cho thấy cốt tủy viêm hay viêm khớp nhiễm chướng có thể là dấu hiệu của viêm phúc mạc hoặc viêm ruột hoại tử đặc biệt khi đi kèm với phân máu hay bạch cầu nhiều trong.Các vết loét ngoài da, loét miệng và gan lách to đặc biệt với đông máu nội quản rải rác [DIC] có thể cho thấy nguy cơ nhiễm herpes simplex toàn trùng sớm do liên cầu B GBS có thể có biểu hiện như một tình trạng viêm phổi cấp tính. Thông thường, các biến chứng sản khoa đặc biệt là trẻ non tháng, ối với kéo dài, hoặc viêm ối màng ối. Trong > 50% trẻ sơ sinh, nhiễm trùng Streptococcus nhóm B có biểu hiện trong vòng 6 giờ sinh; 45% có điểm số Apgar 3 ngày đến 12 tuần, viêm màng não thường xuất hiện. Nhiễm khuẩn với GBS muộn thường không liên quan đến các yếu tố nguy cơ chu sinh hoặc chứng tỏ mẹ có mang vi khuẩn mà đó là do tình trạng bội sau khi đẻ. Chỉ số nghi ngờ caoNuôi cấy máu, dịch não tủy CSF và đôi khi là nước tiểuChẩn đoán sớm bệnh nhiễm khuẩn huyết sơ sinh là rất quan trọng và đòi hỏi cảnh giác với các yếu tố nguy cơ đặc biệt ở trẻ sơ sinh cân nặng thấp và tiếp tục cần theo dõi nếu có bất thường trong vài tuần đầu đời. Tổng số bạch cầu và số lượng tuyệt đối của các dòng bạch cầu ở trẻ sơ sinh là yếu tố dự báo kém của nhiễm trùng huyết sớm khởi phát. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng chưa trưởng thành tổng số bạch cầu đa hạt nhân > 0,16 là có giá trị chẩn đoán, và các giá trị dưới ngưỡng này có một giá trị tiên đoán âm tính cao. Tuy nhiên, tính đặc hiệu là thấp; đến 50% trẻ sơ sinh đủ tháng có tăng tỷ lệ. Các giá trị thu được sau 6 giờ tuổi có nhiều khả năng là bất thường và có giá trị lâm sàng so với những kết quả thu được ngay sau khi sinh. Số lượng tiểu cầu có thể giảm vài giờ đến ngày khởi trước khi khởi phát nhiễm trùng trên lâm sàng nhưng thường vẫn tăng sau khi trẻ hồi phục một ngày. Sự giảm này đôi khi đi kèm với những thay đổi khác của DIC ví dụ như tăng sản phẩm giáng hóa fibrin, giảm fibrinogen, kéo dài tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế [INR]. Với những thay đổi này, số lượng tiểu cầu thường không hữu ích trong việc đánh giá một trẻ sơ sinh nhiễm khuẩn có một lượng lớn vi khuẩn lưu thông trong máu nên đôi khi có thể được nhìn thấy vi khuẩn trong các bạch cầu hạt đa nhân bằng cách sử dụng chất nhuộm Gram, màu xanh methylene, hoặc chất tẩy crôm acridine với hệ kể kết quả của công thức máu hoặc dịch não tủy, tất cả trẻ sơ sinh có nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết bệnh nhân không ổn định, sốt hoặc hạ thân nhiệt, kháng sinh nên được chỉ định ngay sau khi nuôi cấy ví dụ như máu và hay dịch não tủy nếu có thể. Các mạch rốn có thể bị nhiễm khuẩn từ các vi khuẩn ở trên gốc rốn, đặc biệt là sau một vài giờ, do đó việc nuôi cấy máu từ catheter tĩnh mạch rốn có thể không đáng tin cậy. Do đó, cần lấy máu để nuôi cấy bằng mạch ngoại biên, tốt hơn là ở 2 vị trí. Mặc dù, việc chuẩn bị da tối ưu để thực hiện trước khi nuôi cấy máu ở trẻ sơ sinh không được xác định, bác sĩ lâm sàng có thể dùng dung dịch chứa iốt và phải để cho vùng da khô hoàn toàn sau sát khuẩn. Ngoài ra, máu được lấy ngay sau khi đặt catheter động mạch rốn cũng có thể được sử dụng cho nuôi cấy nếu cần. Máu nên được nuôi cấy cho cả vi khuẩn hiếu khí và kị khí. Tuy nhiên, lượng máu tối thiểu cho mỗi chai nuôi cấy máu là 1,0 mL; nếu 90%mẫu nuôi cấy máu vi khuẩn dương tính sẽ mọc trong vòng 48 giờ ủ mẫu Dữ liệu về nuôi cấy mao mạch không đủ để đề khuyến cáo dùng phương pháp Candida có thể mọc trên đĩa nuôi cấy máu và trên các đĩa thạch máu, nhưng nếu nghi ngờ có nấm khác thì nên sử dụng phương pháp nuôi cấy nấm. Đối với các loài nấm khác Candida, nuôi cấy máu nấm có thể cần từ 4 đến 5 ngày ủ bệnh trước khi trở nên dương tính và có thể âm tính ngay cả khi bệnh lan truyền rõ rệt. Bằng chứng về sự mang các tác nhân này trong miệng hoặc phân hoặc trên da có thể hữu ích trước khi có kết quả nuôi cấy. Trẻ sơ sinh bị nấm máu cần được thực hiện LP để xác định viêm màng não do nấm. Soi đáy mắt với đồng tử được giãn tốt để xác định có viêm thị giác do nấm Siêu âm thận cũng cần được làm để loại trừ nguy cơ nấm tại thận với hình ảnh u nấm fugal ball. Siêu âm thận cũng cần được làm để loại trừ nguy cơ nấm tại thận với hình ảnh u nấm fugal ball Xét nghiệm nước tiểu là cần thiết chỉ để đánh giá nhiễm khuẩn huyết muộn. Nên lấy nước tiểu qua đặt ống thông bàng quang hoặc chọc hút trên xương mu, không lấy mẫu qua túi nước tiểu. Mặc dù chỉ có kết quả cấy là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán, một số chỉ số như ≥ 5 bạch cầu/trường năng lượng cao hoặc thấy bất kỳ vi sinh vật nào trong một mẫu soi là bằng chứng của nhiễm trùng đường tiểu UTI. Không có bạch cầu trong nước tiểu không loại trừ nhiễm trùng đường tiểu. Nhiều xét nghiệm thường có bất thường trong nhiễm khuẩn huyết và đã được đánh giá là dấu hiệu sớm. Tuy nhiên, hầu hết độ nhạy của các xét nghiệm có xu hướng thấp cho đến khi nhiễm trùng rõ ràng sau đó trong bệnh tật, và độ đặc hiệu cũng không thật sự cao. Các chất chỉ điểm sinh học không được coi là hữu ích để xác định thời điểm bắt đầu dùng kháng sinh cho nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh vì giá trị tiên lượng dương tính kém, nhưng chúng có thể có vai trò bổ trợ trong việc xác định thời điểm có thể chấp nhận ngừng kháng sinh nếu kết quả nuôi cấy vẫn âm tính trong trường hợp nghi ngờ nhiễm trùng huyết khởi phát chất phản ứng giai đoạn cấp tính là các protein được sản xuất bởi gan dưới ảnh hưởng của IL-1 khi có hiện tượng viêm. Loại có được nghiên cứu nhiều nhất trong số này là protein phản ứng C định lượng CRP. Nồng độ ≥ 1 mg/dL 9,52 nmol/L đo bằng nephelometryh - kỹ thuật miễn dịch học thường được coi là bất thường. Nồng độ cao xảy ra trong vòng 6 đến 8 giờ phát triển nhiễm trùng huyết và đạt đỉnh sau 1 ngày. Độ nhạy của định lượng protein phản ứng C cao hơn nếu đo sau 6 đến 8 giờ sau sinh. Hai giá trị bình thường thu được ở 8 giờ đến 24 giờ sau khi sinh và sau 24 giờ sau có một giá trị tiên đoán âm tính cao đến 99,7%. 1. Pontrelli G, De Crescenzo F, Buzzetti R, et al Accuracy of serum procalcitonin for the diagnosis of sepsis in neonates and children with systemic inflammatory syndrome A meta-analysis. BMC Infect Dis 171302, 2017. doi Stocker M, van Herk W, El Helou S, et al C-reactive protein, procalcitonin, and white blood count to rule out neonatal early-onset sepsis within 36 hours A secondary analysis of the neonatal procalcitonin intervention study. Clin Infect Dis 732e383–e390, 2021. doi Tỉ lệ tử vong cao gấp 2 đến 4 lần ở trẻ nhẹ cân so với trẻ đủ tháng. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn sơ sinh sớm là từ 3% đến 40% tỷ lệ nhiễm khuẩn sơ sinh sớm do GBS là 2% đến 10% và nhiễm khuẩn sơ sinh muộn là 2% đến 20% nhiễm khuẩn sơ sinh muộn do GBS vào khoảng 2%. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn sơ sinh sớm phụ thuộc vào nguyên nhân gây nhiễm trùng; nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn gram âm hoặc chủng Candida có tỷ lệ tử vong lên đến 32 đến 36%. Ngoài ra, trẻ sơ sinh cân nặng cực thấp có nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm nấm máu thường có nguy cơ rất cao tổn thương về thần kinh. Liệu pháp kháng sinhLiệu pháp hỗ trợCác biện pháp hỗ trợ chung, bao gồm hỗ trợ hô hấp và kiểm soát huyết động, được kết hợp với điều trị kháng sinh. Trong nhiễm trùng huyết khởi phát muộn, trẻ sơ sinh trước đó được nhận vào cộng đồng bị nhiễm trùng huyết khởi phát muộn cũng nên được điều trị bằng ampicillin cộng với gentamicin hoặc ampicillin cộng với cefotaxime. Nếu nghi ngờ viêm màng não do vi khuẩn gram âm, có thể dùng ampicillin, cefotaxime và aminoglycoside. Trong nhiễm trùng sơ sinh muộn do nhiễm khuẩn bệnh viện, điều trị ban đầu nên bao gồm vancomycin có hoạt tính kháng S. aureus kháng methicilin; xem bảng Liều vancomycin cho trẻ sơ sinh cộng với một aminoglycosid. Nếu nghi ngờ nhiễm P. aeruginosa chỉ định ceftaidime, cefepime, hoặc piperacillin/tazobactam có thể được sử dụng bổ sung hoặc thay cho aminoglycoside tùy thuộc vào sự nhạy cảm của vi khuẩn theo từng đơn vị. Đối với trẻ sơ sinh đã điều trị trước đó với một đợt aminoglycoside từ 7 đến 14 ngày cần được điều trị, cần xem xét một loại aminoglycosid khác hoặc cephalosporin thế hệ nghi ngờ tụ cầu không đông huyết tương coagulase-negative staphylococci ở các bệnh nhân có yếu tố nguy cơ như vị trí đặc catherer bị sưng kéo dài > 72 giờ hoặc được phân lập từ máu hoặc chất dịch vô trùng bình thường khác và được coi là mầm bệnh, liệu pháp ban đầu cho nhiễm trùng huyết khởi phát muộn nên bao gồm vancomycin. Tuy nhiên, nếu vi khuẩn nhạy cảm với nafcillin, cefazolin hoặc nafcillin, có thể dùng thay thế cho vancomycin. Việc loại nguồn mang bệnh như vị trí catheter bị sưng nề là cần thiết để điều trị nhiễm trùng. Ngoài ra, coagulase-negative staphylococci có thể được bảo vệ bằng một màng sinh học lớp phủ bảo vệ ngăn cách vi khuẩn với catheter.Bởi vì Candida có thể mất từ 2 đến 3 ngày để phát triển trong nuôi cấy máu, việc bắt đầu điều trị amphotericin B deoxycholate theo kinh nghiệm và loại bỏ catheter nhiễm bệnh trước khi csoo kết quả cấy mới có thể cứu sống bệnh nhân. Truyền máu đã được sử dụng cho trẻ sơ sinh nặng đặc biệt là hạ huyết áp và toan chuyển hóa. Với hiệu quả làm tăng lượng globulin tuần hoàn, làm giảm lượng endotoxin tuần hoàn, tăng mức hemoglobin với mức 2,3-diphosphoglycerate cao hơn và cải thiện tưới máu. Tuy nhiên, chưa có thử nghiệm lâm sàng có đối chứng nào được tiến tươi đông lạnhcó thể giúp cải thiện sự thiếu hụt opsonin với độc tố ruột của Ecolo ở trẻ sơ sinh cân nặng thấp, tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đối chứng nào được công bố và các nguy cơ liên quan đến truyền máu phải được xem yếu tố kích thích quần thể tái tổ hợp G-CSF-yếu tố kích thích hoạt hóa bạch cầu hạt [GM-CSF]- yếu tố hoạt hóa thực bào đã làm tăng số lượng và chức năng bạch cầu trung tính ở trẻ sơ sinh có giả định làm cải thiện tình trạng nhiễm trùng nhưng thức tế chưa có hiệu quả ở mọi trẻ sơ sinh có giảm bạch cầu nặng; cần phải được nghiên cứu thêm. Tiền sử viêm ối- màng ốiTuổi thai và thời gian vỡ ốiNếu không có viêm ối - màng ối hoặc không có chỉ định điều trị dự phòng với liên cầu B, chỉ định xét nghiệm hoặc điều trị là không cần mẹ có chỉ định điều trị dự phòng Streptococcus nhóm B và đã điều trị thích hợp với penicillin, ampicillin, hoặc cefazolin tiêm tĩnh mạch trong 4 giờ trước sinh, trẻ cần được theo dõi trong bệnh viện trong 48 giờ; các xét nghiệm và điều trị chỉ được thực hiện khi các triệu chứng phát triển. Với trẻ ≥ 37 tuần tuổi thai, có người chăm sóc và theo dõi phù hợp thì có thể xuất viện sau 24 bà mẹ không được điều trị dự phòng nhóm B liên cầu một cách thích hợp, trẻ được theo dõi trong bệnh viện trong 48 giờ mặc dù có thể chưa cần điều trị bằng kháng sinh. Nếu màng ối vỡ ≥ 18 giờ trước khi sinh hoặc tuổi thai < 37 tuần, trẻ nên được chỉ định nuôi cấy máu, công thức máu bạch cầu và CRP khi sinh và/hoặc từ 6 đến 12 giờ. Các triệu chứng lâm sàng và kết quả của phòng thí nghiệm giúp hướng dẫn điều trị. Việc cung cấp globulin miễn dịch để tăng cường phản ứng miễn dịch của trẻ sơ sinh đã không được chứng minh là giúp ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm khuẩn huyết. Tất cả phụ nữ mang thai nên được sàng lọc để tìm vi khuẩn GBS vào cuối thai kỳ bằng cách sử dụng cả nuôi cấy dịch âm đạo và trực tràng. Phụ nữ có kết quả sàng lọc GBS dương tính nên được điều trị dự phòng kháng sinh trong chuyển dạ trừ khi có chỉ định mổ đẻ trước khi chuyển dạ và trước khi vỡ ối. Phụ nữ có kết quả sàng lọc GBS âm tính nên được chỉ định dùng kháng sinh trong chuyển dạ nếu tiền sử họ đã sinh một đứa trẻ sơ sinh bị bệnh phụ nữ không rõ tình trạng nhiễm GBS ví dụ, vì không được kiểm tra hoặc kết quả không có nên dùng kháng sinh trong chuyển dạ nếu ≥ 1 trong số các yếu tố sau < 37 tuần tuổi thai Vỡ ối kéo dài ≥ 18 giờNhiệt độ ≥ 38°CCó thể xảy ra nếu có sàng lọc GBS dương tính trong lần mang thai trước đóKháng sinh thường được sử dụng bao gồm penicillin, ampicillin hoặc cefazolin và nên cho dùng tĩnh mạch trong thời gian ≥ 4 giờ trước khi sinh. Sự lựa chọn kháng sinh nên tính đến các mô hình kháng kháng sinh của GBS ở từng nơi. 1. Brady MT, Polin RA Prevention and management of infants with suspected or proven neonatal sepsis. Pediatrics 132166-8, 2013. doi Puopolo KM, Lynfield R, Cummings JJ, et al Management of infants at risk for group B streptococcal disease. Pediatrics 1442e20191881, 2019. doi Nhiễm trùng sơ sinh có thể nhiễm khuẩn khởi phát sớm ≤ 3 ngày sinh hoặc muộn sau 3 ngày.Nhiễm trùng khởi phát sớm thường là hậu quả của nhiễm trùng mẹ con và các triệu chứng xuất hiện trong vòng 6 giờ sau khi nhiễm trùng khởi phát muộn thường có do môi trường và có nguy cơ cao ở trẻ non tháng, đặc biệt là những trẻ nhập viện kéo dài, sử dụng đường truyền tĩnh mạch. Các triệu chứng sớm thường không đặc hiệu và khó nhận biết. Sốt chỉ có 10% đến 15% số trường hợp máu, cấy dịch não tủy, với nhiễm khuẩn sơ sinh muộn cần cấy thêm nước trị sớm nhiễm khuẩn huyết ban đầu bằng ampicillin kết hợp với gentamicin và/hoặc cefotaxime nếu nghi ngờ bị viêm màng não gram âm, thu hẹp lại thành các thuốc đặc hiệu với vi khuẩn khi có kết quả trị dự phòng liên cầu nhóm B GBS trong thời kỳ sinh đẻ cho những phụ nữ có nguy cơ truyền GBS cho trẻ sơ sinh của họ. Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Bác sĩ chuyên khoa II Cao Thị Thanh - Bác sĩ Nhi - Khoa Nhi - Sơ sinh - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng. Nguyên nhân gây ra bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh là do hệ miễn dịch và chức năng đông máu của trẻ sơ sinh vẫn còn rất vậy, khi xuất hiện dấu hiệu xuất huyết dưới da ở trẻ sơ sinh là tình trạng rất nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong ở trẻ. Xuất huyết chảy máu nói chung là tình trạng máu bao gồm cả 2 thành phần huyết tương và thành phần hữu hình thoát ra khỏi hệ thống tuần hoàn. Dựa vào tính chất, mức độ và vị trí xuất huyết mà có tên gọi khác nhau, như Xuất huyết não, xuất huyết dưới da, xuất huyết dạ dày...Bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh là tình trạng xuất huyết không thường xảy ra co nguy cơ tiềm ẩn nguy cơ đe dọa tính mạng trẻ sơ sinh. Hiện nay, Bộ Y tế đã cho thực hiện việc cung cấp vitamin K cho trẻ ngay sau khi sinh nhằm bảo vệ trẻ khỏi nguy cơ xuất huyết não, màng não do thiếu vitamin K. Việc cung cấp vitamin K cho trẻ sơ sinh được thực hiện theo hai hình thức Uống hoặc tiêm. 2. Các triệu chứng của xuất huyết ở trẻ sơ sinh Triệu chứng bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh như tiên là dấu hiệu xuất hiện máu trong nước tiểu hoặc phân, bà mẹ nên xem xét đến nguy cơ cao bé đang bị xuất hiệu xuất huyết ở trẻ sơ sinh cũng có thể xuất hiện thông qua các vết bầm tím hoặc khối u trên trạng xuất huyết ở trẻ sơ sinh còn có nguy cơ diễn ra ở một số khu vực như vùng rốn hoặc ở màng nhầy mũi và miệng. Chảy máu ở dương vật trong trường hợp cắt bao quy đầu. Hoặc ở những nơi kim đâm khi đi tiêm chủng, truyền dịch IV....Những dấu hiệu khác như da nhợt nhạt, bé khó chịu hoặc buồn ngủ quá mức. Hiện tượng động kinh hoặc vàng mắt 3 tuần sau khi sinh cũng là các biểu hiện về bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh. Triệu trứng đầu tiên của bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh là xuất hiện máu trong nước tiểu hoặc phân. 3. Nguyên nhân xuất huyết ở trẻ sơ sinh Xuất huyết ở trẻ sơ sinh thường do nguyên nhân thiếu hụt vitamin K. Thiếu vitamin K làm giảm khả năng đông máu. Trong khi đó, trẻ sơ sinh chưa có khả năng tổng hợp, lưu trữ vitamin K trong cơ thể. Sữa mẹ cũng không cung cấp đầy đủ nguồn vitamin K để bé phát triển khỏe mạnh. 4. Các giai đoạn của bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh Giai đoạn khởi phát sớm Đây là tình trạng xuất huyết ở trẻ sơ sinh diễn ra trong vòng 24 giờ sau sinh. Trong một số trường hợp bệnh xảy ra ngay sau 1 tiếng đầu tiên sau sinh. Nguyên nhân là do tiền sử sử dụng chất làm loãng máu như warfarin và thuốc chống động kinh của người mẹ trong thai kỳ. Ngoài ra việc bà mẹ sử dụng thuốc kháng sinh như cephalosporin hoặc thuốc chống co giật cũng gây khó khăn trong chuyển hóa vitamin đoạn khởi phát cơ bản Đây là hiện tượng xuất huyết ở trẻ sơ sinh xảy ra trong vòng 2 – 7 ngày sau sinh. Chủ yếu diễn ra ở trẻ sơ sinh chưa tiêm hoặc uống bổ sung vitamin K dự phòng khi sinh. Trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn và không tiêm bổ sung vitamin K cũng có nguy cơ cao gặp bệnh xuất đoạn khởi phát muộn Hiện tượng xuất huyết ở trẻ sơ sinh xảy ra trong thời gian từ 2 tuần – 6 tháng. Đây là hiện tượng phổ biến trong trường hợp trẻ chưa tiêm vitamin K. 5. Phòng ngừa bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh Biện pháp hiệu quả nhất để phòng bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh chính là tiêm vitamin K sau khi sinh. Chỉ cần 1 mũi tiêm trẻ đã nhận được sự bảo vệ thoát khỏi bệnh xuất huyết. Tuy nhiên điều này cũng tùy thuộc vào sức đề kháng và tình trạng sức khỏe của hợp đang mang thai và có sử dụng các thuốc chống loãng máu hoặc chống động kinh, cần phải thông báo trước với bác sĩ để có những biện pháp kịp thời bảo vệ bé khỏi nguy cơ xuất huyết ở trẻ sơ tìm hiểu kỹ vai trò vitamin K và mối quan hệ của nó với bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh là điều rất quan trọng trước và trong thời kỳ mang thai. Có như vậy bạn mới có đủ kiến thức và kĩ năng để bảo vệ con bạn tránh khỏi căn bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh đầy nguy Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec hiện có dịch vụ thai sản trọn gói như một giải pháp giúp mẹ bầu an tâm vì đã có sự đồng hành của đội ngũ y bác sĩ trong suốt thai kỳ. Khi lựa chọn Thai sản trọn gói, thai phụ đượcQuá trình mang thai được theo dõi bởi đội ngũ bác sĩ có trình độ chuyên môn caoThăm khám đều đặn, phát hiện sớm các vấn đề bất thườngThai sản trọn gói giúp thuận tiện cho quá trình sinh đẻTrẻ sơ sinh được chăm sóc toàn diện Để phòng bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh hãy cho trẻ tiêm vitamin K sau khi sinh Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Khi nào cần dùng vitamin K1 tiêm tĩnh mạch? Hướng dẫn bổ sung vitamin K cho trẻ em và người lớn Theo dõi, chăm sóc bà mẹ và trẻ trong 2 giờ đầu ngay sau sinh Bất cứ ai cũng có thể bị xuất huyết não và cũng có những khả năng hồi phục nhất định. Tuy nhiên xuất huyết não ở trẻ sơ sinh có tỷ lệ tổn thương rất cao lên tới 2-30% đối với trẻ đẻ non. Việc dự phòng và điều trị tình trạng xuất huyết não ở trẻ sơ sinh cũng có những điểm khác biệt so với các đối tượng huyết não màng não ở trẻ sơ sinh là tình trạng một mạch máu não bị vỡ, rò rỉ gây thoát ra khỏi lòng mạch chảy vào nhu mô não, gặp nhiều ở trẻ sinh non dưới 32 tuần tuổi. Với trẻ sơ sinh, xuất huyết não thường gây ra ở lớp màng xương sọ. Các nguyên nhân gây ra bệnh xuất huyết não ở trẻ sơ sinh gồm cóTrẻ sinh non có tới 15-20% trẻ sinh non, dưới 32 tuần tuổi hoặc cân nặng dưới 1500 g bị xuất huyết vùng mầm hoặc trong não thấtCác yếu tố nguy cơ gây xuất huyết như ngạt, chấn thương, hồi sức phòng sinh kéo dài, giảm oxy máu, tăng hoặc giảm CO2 máu, toan chuyển hoá, co giật, viêm ruột hoại tửNguyên nhân do mẹ dùng thuốc chống đông, viêm màng ối làm tăng nguy cơ xuất huyết não ở trẻThiếu vitamin K ở trẻ sơ sinh gây rối loạn đông máu, cơ thể dễ chảy máu. Các nhóm nguyên nhân gây thiếu vitamin K ở trẻ có thể là do mẹ ăn uống không đầy đủ, kiêng khem quá mức khi mang thai hoặc trẻ không tổng hợp đủ vitamin K. Một vài trường hợp khác là do tác dụng phụ của thuốc mà mẹ sử dụng trong thời kỳ mang thai isoniazid, rifampicin, barbiturat hoặc nhiễm dioxin trong thời kỳ mang thaiChẩn đoán xuất huyết não ở trẻ sơ sinh dựa vào các yếu tố sauTiền căn sản khoa trẻ đẻ non, cân nặng lúc sinh thấp, sinh ngạt, sang chấn sản khoa, không tiêm vitamin K lúc sinh, sử dụng một số loại thuốc thai kỳ như phenobarbital, chống đông,...Hội chứng thiếu máu cấp da xanh, niêm mạc nhạtHội chứng não - màng não co giật, rên, thóp căng phồng, li bì, hôn mê, giảm vận độngHemoglobin máu 7 phút, tỷ lệ prothrombin giảmChọc dịch não tuỷ ra dịch màu đỏ không đông, dịch hồng, dịch vàng, tế bào bình thườngSiêu âm não qua thóp, chụp cắt lớp vi tính cho thấy các vị trí chảy máu não như dưới màng cứng, dưới màng nhện, ổ máu tụ trong não, chảy máu trong não sơ sinh bị xuất huyết có tỷ lệ tử vong rất cao, rơi vào khoảng 25-45%. Những trẻ sống sót cũng bị tổn thương thần kinh nặng, để lại nhiều di chứng nặng nề. Các di chứng sau xuất huyết não của trẻ rất nghiêm trọng và khó phục hồi nhưLiệt vận độngĐộng kinhChậm phát triển tinh thầnTrẻ bị tàn tật suốt đời, ứ nước não thấtNguy hiểm hơn cả là có cả các trường hợp trẻ sơ sinh xuất huyết não không có biểu hiện sớm và rõ ràng và chỉ phát hiện khi đã có biến chứng nặng, không thể hồi huyết não ở trẻ sơ sinh có thể chủ động phòng ngừa bằng cách các thai phụ chú ý chăm sóc sức khỏe, bổ sung dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai. Những thực phẩm giàu vitamin K cần bổ sung là thịt bò, thịt lợn nạc, trứng gà, ngũ cốc, rau xanh, trứng gà, sữa,... Nếu mẹ có dấu hiệu thiếu vitamin K, có thể tiêm bắp 5 mg vào 2 tuần cuối trước khi khi sinh, trẻ vẫn nhận vitamin K từ mẹ thông qua sữa mẹ nên cũng vẫn cần đảm bảo lượng dinh dưỡng phù hợp trong thời gian này. Các chuyên gia khuyến cáo có thể bổ sung vitamin K cho tất cả các trẻ sơ sinh theo 1 trong 2 cách sauTiêm bổ sung vitamin K 1 mũi vitamin K1 1 mg hoặc vitamin K3 2 mgUống bổ sung vitamin K trẻ sơ sinh có thể uống 3 lần, sau khi sinh, lúc 7 ngày tuổi và 1 tháng tuổi. Liều bổ sung là 2 đây là những thông tin quan trọng về tình trạng xuất huyết não ở trẻ sơ sinh, cha mẹ nên tham khảo để lựa chọn được cách chăm sóc cũng như hướng xử lý phù nay chuyên khoa Nhi - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ tiếp nhận và thăm khám các bệnh lý ở trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh hay mắc phải. Bệnh viện gồm các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, giàu kinh nghiệm, từng công tác tại các bệnh viện lớn như Bạch Mai, 108.. Các bác sĩ đều được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, có tâm - tầm, am hiểu tâm lý trẻ. Bên cạnh các bác sĩ chuyên khoa Nhi trong nước, khoa Nhi còn có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài Nhật Bản, Singapore, Úc, Mỹ luôn tiên phong áp dụng những phác đồ điều trị mới nhất và hiệu quả nhất. Cùng với đó là hệ thống trang máy móc thiết bị hiện đại. Do đó, khi có bất kỳ vấn đề gì về sức khỏe cha mẹ nên lựa chọn cho con những địa chỉ y tế uy tín để điều trị. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Người bệnh xuất huyết não khi không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây ra những thương tổn vĩnh viễn, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng. Đây là một trong những nguyên nhân gây đột quỵ. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn tìm hiểu thêm những thông tin cơ bản xoay quanh tình trạng này. Tìm hiểu chung Chảy máu não là gì? Nhiều người hiểu xuất huyết não tức là bị chảy máu ở trong não máu thoát khỏi mạch máu và lan ra các vùng lân cận. Tuy nhiên, trong y khoa, xuất huyết não đề cập đến tình trạng chảy máu nội sọ, tức là sự chảy máu xảy ra bên trong các nhu mô não. Để hiểu chi tiết hơn, trước tiên bạn nên biết sơ bộ về các trường hợp chảy máu trong não. Tình trạng chảy máu có thể xảy ra ở nhiều vị trí trong não bộ như sau Xuất huyết màng não xuất huyết dưới nhện Ở trong xương sọ, có 3 lớp màng để bao bọc và bảo vệ các nhu mô não, theo thứ tự từ ngoài vào trong là màng cứng, màng nhện và màng mềm. Tình trạng xuất huyết chảy máu có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào giữa các màng não Xuất huyết ngoài màng cứng chảy máu xảy ra giữa xương sọ và lớp màng cứng. Xuất huyết dưới màng cứng chảy máu xảy ra giữa màng cứng và màng nhện. Xuất huyết dưới màng nhện chảy máu xảy ra giữa màng nhện và màng mềm. Xuất huyết bên trong nhu mô não Dạng này phổ biến gấp hai lần xuất huyết màng não. Ở bên trong nhu mô não có thể xảy ra hai loại xuất huyết Xuất huyết trong nhu mô não tình trạng chảy máu xảy ra ở các thùy não, các nhân nền, thân não hay tiểu não. Tình trạng này mới thực sự được gọi là xuất huyết não. Xuất huyết não thất tình trạng chảy máu xảy ra trong các não thất – những khoang trong não có nhiệm vụ sản xuất, dẫn lưu dịch não tủy. Trong bài viết này chỉ đề cập đến thông tin về bệnh xuất huyết não xuất huyết trong nhu mô não. Khi có tình trạng xuất huyết xảy ra, những mô não được nuôi dưỡng bởi mạch máu này sẽ không nhận đủ máu giàu oxy cần thiết. Bên cạnh đó, máu tràn ra và tích tụ tại một vị trí trong não bộ cũng gây áp lực lên vùng não đó và không cho oxy đến. Nếu lưu lượng máu bị gián đoạn, các tế bào ở vùng đó bị tổn thương, và chức năng liên quan sẽ bị rối loạn. Tình trạng thiếu oxy diễn ra trong hơn 3–4 phút sẽ làm cho các tế bào não chết vĩnh viễn, không thể phục hồi được. Triệu chứng Dấu hiệu và triệu chứng xuất huyết não Dấu hiệu xuất huyết não là gì? Tùy vào vị trí bị xuất huyết trên não bộ mà người bệnh có các triệu chứng xuất huyết não tương ứng. Thông thường, các biểu hiện hay gặp là Đột ngột cảm thấy tê bì cơ mặt, cánh tay hay chân, đặc biệt là chỉ xảy ra ở một bên cơ thể Đột ngột liệt nửa người hoặc méo miệng Đau đầu Buồn nôn và nôn mửa Lú lẫn, không tỉnh táo Chóng mặt, choáng váng Co giật Khó nuốt Mất thị lực hoặc nhìn mờ Mất khả năng thăng bằng và phối hợp vận động Gáy cứng, nhạy cảm với ánh sáng Nói khó hoặc phát âm không rõ ràng Khó đọc, viết hay hiểu những gì người khác nói Mất ý thức hoặc hôn mê Khó thở và nhịp tim bất thường thường thấy ở những người bị xuất huyết ở thân não. Xuất huyết não nhẹ hay nặng? Những trường hợp xuất huyết não nhẹ thường chỉ biểu hiện những triệu chứng như giảm khả năng giao tiếp, không tỉnh táo, rối loạn ý thức và lú lẫn. Những dấu hiệu như co cứng toàn thân, co giật, nôn mửa, sốt thậm chí là hôn mê sâu được xếp vào nhóm bệnh xuất huyết não nặng. Khi bạn nhận thấy người thân có bất kỳ triệu chứng kỳ lạ nào nghi ngờ là dấu hiệu xuất huyết não, hãy gọi điện thoại ngay đến số 115 hoặc đưa họ đến bệnh viện gần nhất. Đây là một tình trạng y tế khẩn cấp, đòi hỏi được can thiệp điều trị ngay lập tức. Dù không thường gặp bằng đột quỵ do thiếu máu não nhưng đột quỵ do xuất huyết gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn. Nguyên nhân Nguyên nhân xuất huyết não là gì? Xuất huyết não có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, như Chấn thương đầu, có thể do té ngã, tai nạn giao thông, tai nạn thể thao hoặc chịu tác động lực vào đầu Tăng huyết áp vì có khả năng làm tổn thương thành mạch máu hay khiến mạch máu bị rò rỉ hoặc vỡ, đây là nguyên nhân gây xuất huyết não không do chấn thương thường gặp nhất. Vỡ túi phình mạch máu não vị trí thành mạch bị yếu và phình ra thành một túi nhỏ chứa đầy máu Các mảng amyloid tích tụ trong các thành động mạch não thoái hóa mạch máu não dạng bột Dị dạng động tĩnh mạch não có những đoạn nối trực tiếp bất thường giữa các động mạch và tĩnh mạch ở não U não Huyết khối các xoang tĩnh mạch não Rối loạn quá trình đông máu hoặc điều trị bằng liệu pháp chống đông máu uống thuốc chống đông máu Có khối u đè lên các mô não gây chảy máu trong não Hút thuốc, nghiện rượu nặng hoặc sử dụng các chất kích thích khác như cocain khiến cho thành mạch máu yếu đi Các vấn đề liên quan đến mang thai và sinh nở, bao gồm sản giật, bệnh mạch máu sau sinh hoặc xuất huyết não thất ở trẻ sơ sinh Các vấn đề liên quan đến sự hình thành collagen bất thường bên trong thành mạch máu có thể làm cho thành mạch yếu đi và dễ vỡ. Chẩn đoán và điều trị Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ. Phương pháp chẩn đoán xuất huyết não là gì? Ban đầu, bác sĩ sẽ đánh giá các triệu chứng mà bạn đang gặp phải để xác định sơ bộ tình hình. Tuy nhiên, một số người bệnh xuất huyết não nhưng không biểu hiện bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào khiến cho việc chẩn đoán gặp khó khăn. Để xác định được vị trí chảy máu trong não, bác sĩ cần thực hiện một số xét nghiệm, chẳng hạn như Chụp CT hoặc MRI Chọc dò tủy sống Chụp mạch máu não để tìm kiếm các mạch máu phình vỡ hoặc xơ vữa, viêm động mạch, khối u, rách nội mạc động mạch, cục máu đông Ngoài ra, một số xét nghiệm bổ sung khác có thể được thực hiện để chẩn đoán xuất huyết não, bao gồm Điện não đồ, chụp X-quang ngực hay chọc dò tủy sống Xét nghiệm nước tiểu Xét nghiệm công thức máu toàn phần Điều trị bệnh xuất huyết não Bất kỳ loại xuất huyết nào xảy ra trong hộp sọ hay não bộ đều là tình trạng cần được cấp cứu. Nếu bạn hoặc người thân bị chấn thương đầu hoặc có các dấu hiệu và triệu chứng nghi ngờ là xuất huyết não, hãy đến ngay bệnh viện gần nhất hoặc gọi đến 115. Các nhân viên y tế sẽ chuyển bạn đến khu vực cấp cứu và xác định nguyên nhân gây chảy máu rồi tiến hành điều trị. Nếu bệnh nhân đã bị đột quỵ cũng phải làm bước xác định nguyên nhân, xem do xuất huyết hay do cục máu đông để đưa ra phương án phù hợp. Điều trị y khoa kịp thời sẽ hạn chế tổn thương cho các tế bào não, tăng khả năng phục hồi sau xuất huyết. Đôi khi, bác sĩ sẽ đề nghị làm phẫu thuật nếu Máu tụ nhiều bên trong não cần phải được dẫn lưu ra ngoài ngay lập tức để giảm bớt áp lực nội sọ. Phình động mạch não có thể chưa vỡ nhưng cần được can thiệp, gia cố lại thành mạch để ngăn ngừa chảy máu trong tương lai Có dị dạng động tĩnh mạch cần được loại bỏ. Không phải trường hợp nào người bệnh xuất huyết não cũng cần được phẫu thuật. Bác sĩ sẽ xem xét kích thước, nguyên nhân, vị trí xuất huyết, cũng như vài yếu tố khác trước khi đưa ra lựa chọn điều trị phù hợp. Trong quá trình điều trị, bác sĩ có thể Sử dụng thuốc hạ áp để kiểm soát huyết áp Dùng thuốc trị động kinh để kiểm soát cơn co giật Dùng một số loại thuốc khác để kiểm soát những triệu chứng khác, như thuốc giảm đau giúp giảm bớt đau đầu, thuốc làm mềm phân để tránh bị táo bón Truyền chất dinh dưỡng và bù nước qua tĩnh mạch khi cần thiết, có khi sử dụng ống nuôi thông đến dạ dày nếu bệnh nhân gặp khó khăn khi nuốt Quá trình hồi phục ở người bệnh xuất huyết não Khi được điều trị sớm và đúng cách, hầu hết người bệnh đều phục hồi tốt sau khi bị xuất huyết não. Việc phục hồi chức năng não bộ giúp người bệnh trở lại với cuộc sống bình thường. Các phương pháp giúp hỗ trợ quá trình này gồm Vật lý trị liệu Trị liệu ngôn ngữ Thay đổi lối sống để hạn chế nguy cơ bị xuất huyết trong tương lai. Bạn có thể xem thêm Lập kế hoạch chăm sóc bệnh nhân xuất huyết não khi về nhà Phòng ngừa Phòng ngừa xuất huyết não Bạn có thể giảm bớt nguy cơ bị xuất huyết não bằng cách Kiểm soát huyết áp luôn ổn định Giảm nồng độ cholesterol trong máu Giảm cân nếu đang thừa cân, béo phì Hạn chế sử dụng rượu, bia, thuốc lá Xây dựng chế độ ăn uống lành mạnh Tập luyện thể dục thường xuyên, đều đặn Kiểm soát tốt lượng đường trong máu nếu mắc bệnh đái tháo đường Mang đồ bảo hộ nếu tham gia vào các hoạt động thể chất có nguy cơ gây chấn thương, tránh để chấn thương đến vùng đầu Thay đổi lối sống lành mạnh hơn đế giảm thiểu tai biến mạch máu não Những người từng bị xuất huyết não hay đột quỵ sẽ tăng thêm 25% khả năng bị lại tình trạng đó trong tương lai. Do đó, bạn cần chú ý chăm sóc sức khỏe thật tốt và thực hiện các biện pháp bảo vệ não bộ. Hội chứng suy hô hấp do thiếu chất surfactant trong phổi của trẻ sơ sinh, thông thường ở những trẻ sinh ra 2, có mặt phosphatidyl glycerol, chỉ số ổn định bọt = 47, hoặc tỷ số surfactant/albumin là > 55 mg/g. 1. Srinivasan L, Harris MC, Shah SS Lumbar puncture in the neonate Challenges in decision making and interpretation. J Perinatol 366445–453, 2012. doi Tiên lượng với điều trị là rất tốt; tỉ lệ tử vong là < 10%. Với sự hỗ trợ thông khí đầy đủ, chất surfactant dần dần sẽ bắt đầu được sản xuất và một khi sản xuất bắt đầu, RDS sẽ phục hồi trong vòng 4 hoặc 5 ngày. Tuy nhiên, trong thời gian đó, thiếu O2 máu trầm trọng có thể dẫn đến suy đa tạng và tử vong. Sinh non nhiều hơn có liên quan đến nguy cơ cao mắc bệnh phổi mãn tính, loạn sản phế quản phổi hoặc cả hai. Chất hoạt động bề mặt trong khí quản nếu được chỉ địnhO2 hỗ trợ khi cần thiếtThở máy khi cần BeractantPoractant alfaCalfactantLucinactantBeractant là chiết xuất lipid phổi bò lipid bổ sung protein B và C, colfosceril palmitate, axit palmitic, và tripalmitin; liều 100 mg/kg x mỗi 6h và nếu cần có thể đến 4 liều. Poractant alfa là chiết xuất từ phổi có nguồn gốc từ lợn biến đổi có chứa phospholipid, lipit trung tính, axit béo, và các protein gắn kết surfactant B và C; liều là 200 mg/kg, tiếp theo là 2 liều 100 mg/kg cách 12 giờ nếu cần. Calfactant là một chất chiết xuất từ phổi bê có chứa phospholipid, lipit trung tính, axit béo và các protein gắn kết với surfactant B và C; liều là 105 mg/kg mỗi 12 giờ đến 3 liều nếu cần. Lucinactant là một chất hoạt động bề mặt tổng hợp với chất tương tự protein surfactant Bt rong phổi, các peptide sinapultide KL4, phospholipid và axit béo; liều là 175 mg/kg, mỗi 6 giờ, có thể đến 4 liều. Các chất hoạt động bề mặt có nguồn gốc từ động vật thường được coi là tốt hơn các chất bề mặt tổng đàn hồi của phổi có thể cải thiện nhanh chóng sau khi điều trị. Áp suất đỉnh thì thở vào của máy thở có thể cần được hạ xuống nhanh chóng để giảm rủi ro bị rò khí phổi. Các thông số máy thở khác ví dụ, FIO2, tần số cũng có thể cần phải được giảm. 1. Blennow M, Bohlin K Surfactant and noninvasive ventilation. Neonatology 1074330–336, 2015. doi Aldana-Aguirre JC, Pinto M, Featherstone RM, Kumar M Less invasive surfactant administration versus intubation for surfactant delivery in preterm infants with respiratory distress syndrome A systematic review and meta-analysis. Arch Dis Child Fetal Neonancy Ed 1021F17-F23, 2017. doi Hội chứng suy hô hấp RDS là do thiếu chất surfactant, điển hình chỉ xảy ra ở trẻ sơ sinh < 37 tuần thai; tình trạng thiếu hụt surfactant càng nặng khi mức độ non tháng càng thiếu surfactant, các phế nang bị đóng hoặc không mở được, và phổi bị xẹp lan toả, gây viêm và phù việc gây giảm khả năng hô hấp, RDS làm tăng nguy cơ xuất huyết não thất, tràn khí màng phổi, loạn sản phế quản phổi, nhiễm khuẩn huyết, và tử đoán dựa vào lâm sàng và chụp X-quang ngực; Chẩn đoán loại trừ viêm phổi và nhiễm khuẩn huyết bằng cấy máu và dịch tương dự kiến sinh non, đánh giá sự trưởng thành của phổi bằng cách xét nghiệm nước ối đánh giá tỷ số lecithin/sphingomyelin, độ ổn định của bọt, hoặc tỷ số surfactant/ cấp hỗ trợ hô hấp khi cần thiết và điều trị bằng surfactant trong khí quản nếu trẻ sơ sinh cần đặt nội khí quản ngay lập tức hoặc có tình trạng hô hấp tăng lên khi áp lực dương liên cho mẹ một số liều corticosteroid betamethasone, dexamethasone nếu thời gian cho phép phải sinh trong giai đoạn từ 24 tuần đến 34 tuần; corticoid kích thích sản xuất surfactant bào thai và làm giảm nguy cơ và/hoặc mức độ nghiêm trọng của RDS.

bệnh xuất huyết não ở trẻ sơ sinh